Green Orange Blue
Select the search type
 
  • Site
  • Web
Search

Chi tiết tin tức

Kỹ thuật nuôi ghép một số đối tượng thủy sản nước lợ
Người đăng: Nguyễn Thị Đồng .Ngày đăng: 12/09/2016 15:07 .Lượt xem: 1883 lượt.
Để sử dụng tối đa, có hiệu quả diện tích mặt nước vùng triều, hạn chế dịch bệnh xảy ra thì những đối tượng có khả năng thích nghi rộng như Cua, cá được đưa vào nuôi luân canh, xen canh trong các ao nuôi tôm nước lợ rất phù hợp, có hiệu quả về kinh tế và môi trường.

I. Chuẩn bị ao nuôi

          Nuôi ghép các đối tượng này chủ yếu là hình thức nuôi quảng canh, quảng canh cải tiến, kết hợp nuôi tôm thẻ hay tôm sú với một số đối tượng thuỷ sản nước lợ như cua, cá, trồng rong câu nhằm cải thiện môi trường ao nuôi.

          Ao đầm nuôi hiện nay là sử dụng từ các ao đầm đã nuôi tôm sú, tôm thẻ trước đây không hiệu quả, hiệu quả thấp chuyển sang, vì vậy cần cải tạo kỹ trước khi thả nuôi. Các yếu tố môi trường thích hợp cho sự sinh trưởng, phát triển của đối tượng nuôi, pH nước từ 7,5- 8,5; độ mặn từ 5- 250/00 và nhiệt độ từ 28- 330C.

          Ao nên có diện tích tốt nhất từ 2.000- 5.000m2, độ sâu 1- 1,2 m trở lên và cao hơn mức triều cường ít nhất 0,5m.

          Ao có cống cấp và thoát để đảm bảo cấp thoát nước cho ao, ở trước cống cấp và thoát nước phải có 2 lớp đăng hay lưới chắn cẩn thận, lớp ngoài nên có đăng, lưới chắn hình chữ V. Cũng có thể trồng cây như giá, đước hoặc thả chà bằng cành cây khô, lá dừa nước để che mát cho cua, cá.

          Làm đăng chắn trên bờ bao quanh toàn bộ ao để ngăn không cho cua bò ra khỏi ao. Đăng rào có thể làm bằng tre, hoặc vật liệu tại chỗ: bẹ dừa nước, trang đước. Đăng rào cao trên 0,6m và cắm nghiêng về phía trong đầm một góc khoảng 600.

          Nếu ao đầm nuôi quảng canh thì thường đào ở xung quanh và giữa đầm một con mương sâu 0,5- 0,7m, rộng 2- 3m so với mặt đáy đầm. Bên trong đầm để nguyên các khóm cây, cồn đất cao hơn mặt nước vốn có tự nhiên, nếu không thì có thể tạo nên những đảo và trồng một số cây ở đó để cua, cá trú ẩn.

          Trước khi thả giống nuôi cần làm vệ sinh, cải tạo ao nuôi: Khử chua phèn, diệt tạp, kiểm tra bờ, cống, rào... tương tự như cải tạo ao nuôi tôm.

II. Thả giống 

         Cá dìa (Siganus)


Tuỳ theo điều kiện ao nuôi ở từng vùng mà chọn đối tượng thả nuôi ghép cho phù hợp để mang lại hiệu quả kinh tế cao. Có thể thả nuôi ghép các đối tượng thủy sản nước lợ ở vùng triều với các hình thức sau:

- Nuôi ghép Tôm (tôm sú, tôm thẻ) – Cá (cá đối, cá măng, cá dìa);

- Nuôi ghép Tôm (tôm sú, tôm thẻ) – Cua – Cá (cá đối, cá măng, cá dìa);

- Nuôi ghép Tôm sú – Rong câu – Cá dìa.

Thông thường tiến hành thả giống tôm trước 20- 30 ngày mới thả ghép các đối tượng khác vào.

          Con giống trước khi thả nuôi phải được kiểm dịch, kiểm tra chất lượng để loại bỏ những đàn giống yếu, mang mầm bệnh do virus, vi khuẩn, nấm, ký sinh trùng. Đàn giống đảm bảo các tiêu chuẩn, chất lượng giống tốt.

Trước khi thả giống 5- 7 ngày, cần theo dõi điều kiện thời tiết. Không thả tôm, cá giống trong thời điểm có mưa, không khí lạnh hay những ngày thời tiết bất thường sẽ không có lợi cho sức khỏe cho đàn giống thả nuôi.        

Mật độ giống thả:

          - Tôm thẻ chân trắng: Kích cỡ ≥ Post 12, thả với mật độ 40 con/m2.

          - Tôm sú: Kích cỡ ≥ Post 15, mật độ 10- 12 con/m2.

          Sau thời gian thả nuôi tôm gần 1 tháng thì thả ghép cua, cá vào nuôi chung.

          - Cua: Kích cỡ ≥1,2 cm, thả mật độ 0,5 con/m2 (Nếu nuôi từ giống cua bột sản xuất nhân tạo thì thả mật độ 1- 1,5 con/m2 . Cua bột C2- C3, kích cỡ ≥ 0,5cm).

          - Cá dìa: Kích cỡ ≥ 4 cm; Cá đối, cá măng: ≥ 6 cm. Mật độ 0,5- 1con/m2.

Nếu nuôi ghép nhiều đối tượng (từ 3 đối tượng trở lên) thì nên thả nuôi mật độ thưa. Chẳng hạn, nuôi ghép tôm sú với cá măng, cua. Mật độ thích hợp cho nuôi thịt là 5- 10 vạn tôm/ha và 2.000- 3.000 cá măng/ha hay 1000- 2.000 con cua biển và 2.000 cá măng/ha.

Ngoài ra, cá dìa còn là đối tượng nuôi chính trong ao nuôi tôm bị dịch bệnh; vừa mang lại hiệu quả kinh tế, đồng thời giúp tiêu diệt mầm bệnh tồn lưu trong ao tôm. Với mật độ thả 2 - 3 con/m2, sử dụng thức ăn tự chế hoặc bột công nghiệp, sau 10 - 12 tháng nuôi, cá có thể đạt trọng lượng 0,6 – 1,0kg/con. Đặc biệt, cá dìa ăn tạp nên tính cạnh tranh của cá thấp, tỷ lệ sống cao.

          Giống cá măng, cá đối, cá dìa có kích cỡ nhỏ thì cần được ương riêng trong ao ương sau thời gian đạt cỡ giống lớn mới thả vào ao tôm nuôi chung.

III. Thức ăn và cho ăn

            1. Thức ăn của tôm

Cho tôm ăn hàng ngày dựa trên các yếu tố: Kích cỡ, tỷ lệ sống, tình trạng sức khoẻ của tôm, chất lượng nước, thời tiết, chất lượng thức ăn để cho tôm ăn cho phù hợp.

Trong 15 ngày đầu sau khi thả tôm có thể sử dụng thức ăn công nghiệp dạng bột chất lượng cao, hoà vào nước tạt đều khắp ao. Từ sau ngày 15 trở đi cho ăn thức ăn công nghiệp dạng vảy, tôm lớn chuyển qua thức ăn dạng viên.

Ở giai đoạn còn nhỏ chúng có thể ăn gấp đôi trọng lượng thân. Đối với tôm mới thả, chưa thể tính toán chính xác được tỉ lệ sống, trọng lượng trung bình và tổng trọng lượng tôm trong ao, do đó có thể tham khảo khẩu phần cho ăn như sau: Khi mới thả cho ăn 1,5- 2kg thức ăn/100.000 Post 15; sau cứ 5 ngày 1 lần thì tăng lượng thức ăn lên từ 0,3- 0,5 kg cho mỗi ngày; áp dụng cho tôm nuôi ở tháng thứ 1.

Khi tôm lớn từ tháng nuôi thứ 2 trở đi, đặt sàng kiểm tra thức ăn (80 x 80 cm). Mỗi ao từ 2- 4 sàng tuỳ diện tích ao nuôi (thường 1.500- 2.000 m2 đặt 1 sàng). Lượng thức ăn cho vào sàng 2- 3% so với tổng lượng thức ăn, chia đều cho các sàng. Thời gian kéo sàng kiểm tra thường 3 giờ đối với tôm nhỏ và giảm dần xuống 1,5 giờ đối với tôm lớn. Kiểm tra thức ăn trên sàng thiếu hay thừa để điều chỉnh lại một cách hợp lý cho ngày hôm sau. Sàng cho ăn phải được đặt ở những khu vực sạch sẽ và được bố trí rải rác khắp ao để kết quả kiểm tra một cách trung thực, chính xác nhất.  

Giai đoạn tôm còn nhỏ cần rải đều thức ăn khắp ao, khi tôm lớn rải xung quanh cách bờ 3- 5m. Nên rải thức ăn trong vùng đáy sạch, tránh rải ở những khu vực bị ô nhiễm.

Giai đoạn tôm còn nhỏ ở tháng nuôi đầu cho 4- 6 lần/ngày, lượng thức ăn sử dụng 6- 10% trọng lượng thân, sau tháng nuôi thứ 2 trở đi cho ăn 2-3 lần/ngày, lượng thức ăn sử dụng  từ 2- 5% trọng lượng thân.

Trong chu kỳ nuôi, cần bổ sung thêm thành phần các chất dinh dưỡng, Vitamin, khoáng chất các loại vào trong thành phần thức ăn cho tôm.

Vì tôm thẻ, tôm sú nuôi với mật độ thưa và nuôi ghép với một số đối tượng khác nên có thể sử dụng thức ăn tự chế biến bằng cá tạp + các loại bột, nấu chín, xay đùn dạng viên cho ăn để giảm chi phí. Đồng thời, thức ăn thừa và phân tôm thải ra làm thức ăn cho các đối tượng khác.

2. Thức ăn của cua

Cua ăn tạp, có thể sử dụng các loài cá tạp, tôm, các loài nhuyễn thể, các loại bột chế biến cho ăn.

Lượng thức ăn hàng ngày khoảng 5- 80/0 trọng lượng cua tuỳ thuộc chất lượng của thức ăn.

Mỗi ngày nên cho cua ăn 2 lần: sáng sớm từ 5- 6 giờ và chiều mát từ 17- 18 giờ.

Thức ăn được rải đều ở chỗ nước nông ven bờ và ở những bãi nông.

Trước lúc cho cua ăn có thể kiểm tra thức ăn có còn thừa hay không để có thể tăng giảm số lượng và thay đổi chủng loại nếu cần.

Cua rất háo ăn nên không để cho cua bị đói như cho ít thức ăn, hoặc bỏ bữa không cho ăn. Trong trường hợp như vậy cua có thể ăn thịt lẫn nhau.

3. Thức ăn của cá đối, cá măng, cá dìa

Đối với cá đối cho ăn thức ăn: cám, bột bánh dầu, hoặc thức ăn tự chế biến từ cá tạp, bột các loại, cho ăn 5- 10% trọng lượng cá/ngày tùy từng giai đoạn cá nuôi. Ngoài ra có thể bón bổ sung phân chuồng 1 tấn/ha/tuần.

Đối với cá măng cần tạo lab-lab và phiêu sinh như ương cá giống. Bổ sung thức ăn cám, bột các loại cho ăn 30- 50kg/ha/ngày. Thỉnh thoảng bón phân chuồng nhưng tránh lab-lab phát triển quá mức. Ngoài thức ăn chủ yếu là lab-lab, trong quá trình ương nuôi cũng cần có bổ sung thêm cám gạo, bột bánh dầu, bột mì, với tỉ lệ 4-10% trọng lượng cá nuôi. Cho ăn 2 lần trong ngày sáng và chiều. Đồng thời cho ăn thêm thức ăn công nghiệp để cá mau lớn và để vỗ béo cá trước khi thu hoạch.

Nuôi ghép tôm với cá đối, cá măng, khi cho cá ăn thức ăn bổ sung hoặc thức ăn công nghiệp thì thường cho ăn trước 0,5- 1,0 giờ để cá ăn no rồi tản ra và sẽ không cạnh tranh thức ăn với tôm.

IV. Chăm sóc, quản lý và thu hoạch

          Thường xuyên giữ môi trường trong sạch, nếu có điều kiện thì thay nước 15- 20 ngày/1 lần. Mỗi lần thay từ 20- 30% lượng nước trong ao hoặc thay nước theo con nước thuỷ triều.

  Luôn giữ mức nước từ 1- 1,2m trở lên. Khi nuôi hỗn hợp với cua cần rào chắn cẩn thận để tránh thất thoát.

          Kiểm tra bờ, đăng chắn, cống lấy thoát nước, không để có lỗ mội, những chỗ hư hỏng phải được sửa lại, không để cua thoát ra ngoài.

          Phải cho tôm, cua, cá ăn đầy đủ vì nếu thiếu thức ăn chúng dễ cạnh tranh hoặc tấn công lẫn nhau. Cua rất háo ăn không nên để cho cua bị đói như : cho ít thức ăn, hoặc bỏ bữa không cho ăn. Trong trường hợp như vậy cua có thể ăn thịt lẫn nhau và ăn cả tôm nuôi.

          Định kỳ 15 ngày phải tiến hành kiểm tra sinh học để biết tỷ lệ sống, tốc độ phát triển, sản lượng tôm, cua, cá hiện có trong ao nuôi, từ đó mới có cơ sở để quản lý thức ăn được tốt.

          Hàng ngày cần theo dõi, kiểm tra tình trạng sức khoẻ của các đối tượng nuôi, môi trường ao nuôi. Định kỳ bón các loại vôi CaCO3, Dolomite để ổn định các yếu tố môi trường, phòng bệnh cho đối tượng nuôi.

          Sau thời gian nuôi khoảng 3 tháng đối với tôm thẻ chân trắng, 4,5- 5 tháng đối với tôm sú, kiểm tra tôm nếu đạt kích cỡ thương phẩm thì có thể tiến hành thu hoạch tôm trước. Còn cua, cá để lại nuôi thêm một thời gian nữa.

          Khi cua đạt cỡ 300- 350gam/con trở lên thì kiểm tra xem mức độ lên gạch (cua cái) và chắc (cua đực) để thu tỉa, còn cua ốp, cua nhỏ để lại nuôi tiếp.

          Cá măng sau thời gian nuôi 4- 5 tháng đạt trọng lượng 300- 400g thì có thể tiến hành thu hoạch, đạt 500g trở lên sau 6- 8 tháng nuôi.

          Cá đối, cá dìa nuôi tốt sau 6 tháng có trọng 400- 500g/con. Có thể thu hoạch tỉa cá lớn trước, sau đó cá nhỏ còn lại tiếp tục nuôi cho đạt cỡ thương phẩm mới thu hoạch.

                      

Nguồn tin: Trung tâm Khuyến nông Quảng Nam
[Trở về]
Các tin mới hơn:
Kỹ thuật nuôi cá Chạch đồng
Một số biện pháp kỹ thuật nuôi cá rô phi đơn tính đực qua đông
Một số biện pháp kỹ thuật nuôi cá rô phi đơn tính đực qua đông (tiếp theo)
Thông báo: Kết quả phân tích các chỉ tiêu môi trường nước và mần bệnh tôm nuôi trên địa bàn tỉnh Quảng Nam (Đợt 1 tháng 6)
Một số giải pháp kỹ thuật ứng phó tình hình thời tiết nắng nóng kéo dài, mưa dông bất thường
Phương pháp nuôi tôm mùa mưa
Kỹ thuật nuôi cá nước ngọt trong lồng
Chế biến thức ăn cho cá nước ngọt
Phòng trị bệnh cho cá trong mùa mưa lũ
Một số biện pháp để tăng cường sức đề kháng cho động vật thủy sản
    
1   2  
    
Các tin cũ hơn:
Phê duyệt Đề án Nâng cao giá trị gia tăng hàng nông lâm thủy sản
Qũy hỗ trợ ngư dân Quảng Nam: Cùng ngư dân vươn khơi, bám biển
Áp dụng VietGAP vào nuôi tôm thẻ chân trắng
Triển vọng ương nuôi cua bột lên cua giống
Kỹ thuật nuôi cá chẽm
Kỹ thuật nuôi Lươn thương phẩm
Kỹ thuật nuôi cá Thát lát cườm
Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về cơ sở nuôi cá tra trong ao
Kỹ thuật nuôi cá chình
Thông báo Nuôi tôm nước lợ 2015
    
1   2   3  
    






Liên kết Web

Chuyên đề khuyến nông


    Lượt truy cập

    Tổng số lượt truy cập

    00006472749

    Lượt trong ngày 3497
    Hôm qua: 2499
    Năm trước: 1432689
    Số người đang Online: 77
    Tổng số 6472749